Sáng sớm hôm sau, phủ Chung Thái phó đã sai người mang đến rất nhiều lễ vật, kèm theo một bức thư do chính tay Chung Hội viết. Trong thư ghi: “Chút lễ mọn, không đủ kính ý, một là để tạ ơn thầy, hai là để đáp tình xưa.”
Hạ Hầu Nghiên cầm thư trong tay đọc, thấy thư được viết trên loại giấy ánh bạc thượng hạng, hoa văn chìm thoạt nhìn không rõ, nhưng khi chạm vào lại có cảm giác nổi nhè nhẹ, giấy còn tỏa ra hương mực thoang thoảng. Nhưng điều khiến Hạ Hầu Nghiên bất ngờ hơn cả, chính là nét chữ của Chung Hội.
“Không ngờ Sĩ Quý còn nhỏ tuổi mà thư pháp đã đạt đến mức này, huynh xem, chữ lệ của hắn phiêu dật thanh nhã, quả thực là tuyệt phẩm.”
Hạ Hầu Huyền gật đầu: “Chung Thái phó vốn là bậc đại gia thư pháp đương thời, xem ra Sĩ Quý cũng thừa hưởng thiên phú này, tiền đồ rộng mở. Ta xem nét chữ ấy đã có khí cốt, ẩn chứa chí hướng phi thường.”
Lễ vật Chung Hội gửi đến tuy không nhiều, nhưng món nào cũng quý giá hiếm thấy: tặng Hạ Hầu Huyền một bức thư pháp chân tích của "thảo thánh" Trương Chi thời tiền triều; tặng Hạ Hầu Nghiên một khối nghiên Hồng Ty sản xuất tại Thanh Châu, và tặng phu nhân họ Tào một tấm gấm Lưu Vân loại “tấc gấm tấc vàng”.
Hạ Hầu Nghiên vuốt ve khối nghiên mịn như ngọc, cảm thấy thuận tay hơn hẳn tất cả nghiên nàng từng dùng; còn Hạ Hầu Huyền thì kinh ngạc không thôi trước thư pháp Trương Chi, yêu thích đến không nỡ buông tay.
Chiều hôm ấy, Hạ Hầu Nghiên gặp lại Hà Dung, thấy gương mặt nàng đã đầy đặn trở lại, sắc mặt hồng hào, đoán biết gần đây đã ăn uống bình thường trở lại thì yên tâm phần nào, rồi kể lại những chuyện gần đây mình gặp phải.
Nghe đến vụ việc hai tỷ muội họ Hứa ngang ngược giữa phố, Hà Dung vỗ tay tán thưởng liên tục, khen Hạ Hầu Nghiên bắn mũi tên thật hay, nhưng đồng thời cũng lo lắng nói: “Nghe nói tỷ muội họ Hứa ai nấy đều xinh đẹp mê người nhưng tâm địa độc ác, quả là xứng danh yêu cơ rắn rết. Đặc biệt là Hứa Ngọc Phủ, từ sau khi chị dâu Bạch thị mất đi, càng thêm lộng hành vô pháp.” Hà Dung liếc trái liếc phải, ghé sát vào tai Hạ Hầu Nghiên, thì thầm: “Có người nói, trong phủ Cẩn ca ca, hễ có tiểu thiếp hay nha hoàn nào mang thai, ả đều sai thị vệ đánh mạnh vào bụng họ cho đến khi thai rơi xuống...”
Hạ Hầu Nghiên tròn mắt kinh ngạc: “Sao có thể… ra tay tàn độc đến thế? Dù ả không coi trọng mạng người, Cẩn ca ca sao có thể dung túng ả như vậy?”
Hà Dung hừ lạnh: “Ta thấy Cẩn ca ca cũng u mê rồi, mỹ sắc trước mắt thì còn gì lý trí. Nhưng ta kể cho ngươi nghe là để nhắc nhở, Nghiên nhi, phải đề phòng ả trả thù. Với loại người ác độc như vậy, mũi tên kia, e là ả sẽ không dễ gì bỏ qua đâu.”
“Dung Dung yên tâm, ta sẽ cẩn trọng.”
…
Sáng hôm sau, Chung Hội đã sớm đến đứng chờ trước cửa phủ Hạ Hầu, không báo người truyền vào, đợi đến khi thấy gia nhân mở cửa quét dọn, lại kiên nhẫn đợi thêm một lát, canh đúng lúc Hạ Hầu Nghiên dùng xong bữa sáng mới vào bái phỏng.
Hôm nay Chung Hội mặc một bộ áo cưỡi màu vàng kim in hoa, dáng vẻ phong lưu, thần sắc phấn chấn, khiến ai nhìn cũng thấy thoát tục. Tích Duyệt thấy thế, cười nói với Hạ Hầu Nghiên: “Tiểu thư, nô tỳ thấy Chung công tử rất xem trọng dáng vẻ, từ xiêm y đến tóc tai đều vô cùng tinh tế nhã nhặn, đủ thấy hắn để tâm thế nào đến buổi luyện cưỡi ngựa cùng tiểu thư hôm nay.”
Trên đường đến trường ngựa, Hạ Hầu Nghiên và Chung Hội mỗi người cưỡi một ngựa, sóng vai mà đi, Tích Duyệt – thị nữ của nàng – gần đây cũng học được cưỡi ngựa, đi theo sau không xa không gần; phía Chung Hội là một lão nhân râu tóc bạc phơ, đi kè kè bên cạnh.
Hạ Hầu Nghiên nhìn ông lão thấy quen mặt, bèn hỏi:
“Sĩ Quý, vị này chẳng phải là lão bá ta từng gặp ở Ôn Thành khi xưa?”
“Đúng là Lưu bá, người hầu cũ trong phủ ta, từ nhỏ đã chăm sóc ta. Thư pháp của ta, tuy do phụ thân dạy dỗ, nhưng luyện tập hằng ngày đều nhờ Lưu bá chỉ điểm.”
“Thì ra Lưu bá cũng là người tài giỏi. Xem ra trong phủ Thái phó, thật chẳng có kẻ tầm thường.” Hạ Hầu Nghiên cảm thán: “Ta thấy Lưu bá so với sáu năm trước hầu như không thay đổi gì, chẳng khác nào đã uống tiên đan.”
Chung Hội và Lưu bá cùng bật cười, Lưu bá nói: “Tiểu thư quá khen. Con người đến một độ tuổi nhất định rồi, sẽ chẳng thể già thêm nữa. Lúc gặp tiểu thư năm đó, lão nô tóc trắng râu bạc, giờ cũng chẳng còn gì để bạc thêm.”
“Đúng rồi, Sĩ Quý, ngươi nay mới mười một tuổi, sao không đến Thái học học tập?”
“Chuyện này…” Chung Hội thoáng do dự, Lưu bá liền đáp thay: “Tiểu thư không biết đó thôi, nhị công tử nhà ta thiên tư hơn người, đến cả thầy trong Thái học cũng phải cam bái hạ phong, bảo là chẳng còn gì để dạy nữa.”
Chung Hội hơi đỏ mặt: “Lưu bá, đừng nói quá. Tuy đúng là những gì Thái học dạy ta đều đã biết, nhưng bảo thầy cúi đầu thì thật quá lời rồi.”
“Hơn nữa, ta không vào Thái học còn vì không thích phong khí nơi đó. Hiện nay, con trai của Đinh Mịch – Đinh Văn, và em trai Đặng Dương – Đặng Tề, đều kết bè kết phái trong Thái học, học trò mà mang thói quan trường, nịnh bợ luồn cúi. Ba vị sủng thiếp của Đại tướng quân và hai huynh đệ hắn còn đưa cả em họ vào học, chuyên chạy theo quyền thế. Ta thực không muốn cùng lũ người ấy làm bạn.”
“Ngươi nói đến sủng thiếp của Đại tướng quân, chẳng phải là ba chị em họ Hứa?”
“Nghe loáng thoáng là họ Hứa. Nghe nói ba chị em này xuất thân kỹ nữ, vì múa hát tuyệt vời mà được cả ba huynh đệ Đại tướng quân nạp làm thiếp, ai nấy đều được cưng chiều hết mực. Tào Huấn tướng quân thậm chí còn có ý lập thiếp làm chính thất, phụ thân ta đã nhiều lần khuyên can, bảo là trái luật pháp, khiến hắn không vui.”
Thiếp thất mà còn dám đưa em họ vào Thái học — chuyện xưa nay chưa từng có. Xem ra, sự sủng ái dành cho ba chị em họ Hứa còn vượt xa tưởng tượng của nàng. Mà Tào Sảng hiện là Đại tướng quân đương triều, trọng thần phụ chính, lại hành xử chẳng nể gì lễ nghi luân thường, đã khiến những công tử xuất thân thế gia như Chung Hội hết sức bất mãn.
Tại trường ngựa, Hạ Hầu Nghiên cưỡi con chiến mã yêu quý tên “Ảnh Tật”, chạy vài vòng, rồi đến khu bắn cung luyện tập. Chung Hội tuy cưỡi ngựa tốt, nhưng thường luyện kiếm, nên kém nàng về khoản bắn cung.
“Tiểu thư thật giỏi cưỡi ngựa, trong số nữ tử ta từng thấy, không ai có thể sánh bằng.” Thấy Hạ Hầu Nghiên xuống ngựa, Chung Hội vội đón lấy, tranh trước Tích Duyệt, đưa nàng một chiếc khăn lụa mới tinh.
Hạ Hầu Nghiên đón lấy khăn, lau mồ hôi trán, cười nói: “Ngươi quá khen rồi. Thực ra thuở nhỏ ta không thích cưỡi ngựa, chỉ mê theo phụ thân tập bắn cung.”
“Thế sau này, vì sao lại thích cưỡi ngựa?”
“Chính là vì trận hỏa hoạn ở Ôn Thành năm đó. Đệ thường nói cảm ơn ta đã cứu mạng, nhưng thật ra, nếu không có ca ca Tử Thượng, e rằng cả ta và đệ đều đã bỏ mạng trong biển lửa. Ta vẫn luôn nhớ rõ cảnh ca ca Tử Thượng thúc ngựa giơ roi, đưa hai ta thoát khỏi biển lửa…” Nhắc lại chuyện cũ, trong mắt Hạ Hầu Nghiên ánh lên tia sáng lấp lánh, Chung Hội nhìn thấy mà tim bất giác chùng xuống.
“Vì thế, tỷ tỷ mới muốn học cưỡi ngựa cho giỏi sao?”
“Đúng vậy, ta nghĩ, chỉ có người như ca ca Tử Thượng mới có thể tự cứu mình, cứu người giữa lúc hiểm nguy.”
Nghe nàng luôn miệng “ca ca Tử Thượng”, trong lòng Chung Hội bỗng dâng lên cảm giác nghẹn ngào chưa từng có. Hắn trầm mặc một lát, rồi lại nở nụ cười rạng rỡ.
“Thấy người hiền mà noi theo, tỷ tỷ bắn cung đã tinh diệu như thế, Sĩ Quý cũng nên chăm chỉ luyện tập, mong sớm được như tỷ.”
“Ta thấy Sĩ Quý quá khiêm tốn rồi, sức tay của đệ mạnh hơn ta rất nhiều, chỉ cần luyện tập siêng năng, tương lai tất sẽ vượt qua ta.”
Kéo cung, ngắm chuẩn, bắn ra — lại một mũi tên trúng hồng tâm.
Mũi tên của Chung Hội bên cạnh cắm sâu hơn một tấc so với nàng, nhưng lại lệch hồng tâm đôi chút.
“Tỷ tỷ, chỗ này, góc bắn của ta mãi không điều chỉnh chuẩn được, tỷ có thể dạy ta cách nhắm trúng hồng tâm không?” Chung Hội vẻ mặt khổ não, đáng thương nhìn nàng.
Bị hắn dùng ánh mắt ướt át, còn mang chút tủi thân nhìn như vậy, lòng Hạ Hầu Nghiên lập tức mềm nhũn.
“Đừng vội, để ta xem thử.”
Nàng bước đến bên hắn, giống như thuở nhỏ phụ thân từng dạy mình, tay trái đỡ cánh tay hắn, tay phải nhẹ nâng khuỷu tay phải hắn lên cao một chút: “Đúng, như thế, nhích lên một chút nữa… Ừm, gần được rồi.”
Hạ Hầu Nghiên tập trung quan sát tư thế tay và độ cao cánh tay của Chung Hội, hoàn toàn không chú ý đến đôi tai hắn đã đỏ ửng từ khi nào.
Đúng lúc ấy, gia nhân trông cửa chạy vào bẩm báo: nhị công tử phủ Tư Mã đến bái phỏng.
Nghe thấy hai chữ “Tư Mã”, Hạ Hầu Nghiên lập tức đứng bật dậy chạy ra cửa.
“Ca ca Tử Thượng, hôm nay sao huynh lại đến đây?”
Trước cổng trường ngựa, Tư Mã Chiêu vận một bộ y phục cưỡi ngựa màu lam xám, vừa từ trên ngựa bước xuống.
“Hôm nay theo phụ thân cưỡi ngựa, đi ngang qua đây, liền muốn đến thăm A Nghiên.”
“Hôm nay trời có gió, huynh đang bị cảm phong hàn, sao lại ra ngoài cưỡi ngựa?”
Thấy gương mặt trắng trẻo của nàng tràn đầy lo lắng, Tư Mã Chiêu mỉm cười: “Ta nào yếu đuối vậy? A Nghiên ngày ngày sai người mang lê chưng xuyên bối đến, ho của ta đã khỏi từ lâu rồi.”
Từ lần đưa lê chưng đến cho Tư Mã Chiêu lúc hắn tan triều, Hạ Hầu Nghiên cảm thấy hành động ấy quá mức đường đột. Khi ấy còn có thể viện cớ là “đưa cho ca ca ruột bị phong hàn, tiện thể chia cho người khác”, nhưng nếu còn tiếp diễn, e sẽ bị phát hiện sơ hở. Vì thế, nàng nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng quyết định cho đầu bếp trong phủ mỗi ngày nấu sẵn lê chưng rồi đưa thẳng đến phủ Tư Mã.
“Hôm trước phủ ta mới được dâng ít hạt dẻ, ta biết A Nghiên thích ăn, nên đã bảo người hấp bánh dẻ, còn đang ấm, A Nghiên nếm thử đi.”
Tư Mã Chiêu vừa nói xong, tùy tùng phía sau liền dâng lên một hộp thức ăn hai tầng sơn mài đen khắc hoa, giao cho Tích Duyệt.
“Ca ca Tử Thượng còn nhớ ta thích ăn hạt dẻ nữa,” mặt nàng vì vui mừng mà hơi ửng đỏ, “để ta đi rửa tay, rồi cùng ăn với huynh…”
Chung Hội đứng cách đó không xa, trông thấy cảnh này, bên cạnh Lưu bá nói nhỏ: “Nhị công tử, ta thấy Hạ Hầu tiểu thư khi nhìn Tư Mã công tử, ánh mắt kia… chẳng khác nào nhị công tử nhìn nàng, sáng rỡ hơn cả sao trời.”
Vừa là lời nhắc nhở, cũng là lời cảnh tỉnh.
Chung Hội sững lại, rồi nhanh chóng bước lên, cúi người hành lễ: “Sĩ Quý tham kiến ca ca Tử Thượng, năm xưa tại Ôn Thành, may nhờ huynh cứu giúp, tỷ tỷ và ta mới thoát khỏi biển lửa. Ngày khác ta sẽ cùng phụ thân đến tận cửa bái tạ.”
“A, ta quên chưa giới thiệu. Ca ca Tử Thượng, đây là Sĩ Quý, nhị công tử phủ Chung Thái phó, hôm đó được huynh cứu cùng ta, khi ấy hắn mới có năm tuổi thôi.”
Tư Mã Chiêu nhìn thiếu niên trước mặt, nhỏ hơn Hạ Hầu Nghiên bốn tuổi, nhưng đã cao ngang nàng. Sau khi hành lễ, hắn liền đứng sát bên nàng, cằm hơi nhấc, mang theo vẻ kiêu ngạo đặc trưng của thiếu niên thế gia đất kinh kỳ, ánh mắt lóe lên chút cảnh giác khiến Tư Mã Chiêu lập tức hiểu rõ ba phần.
Sau khi Tư Mã Chiêu và Chung Hội chào nhau xong, định cáo từ ra về, bỗng nghe phía con đường nhỏ ngoài trường ngựa vang lên tiếng xe ngựa. Chỉ trong chốc lát, một cỗ xe sang trọng do bốn con ngựa kéo đã xuất hiện trước mắt. Bên ngoài xe trang trí vàng sáng rực và thạch vân mẫu, thân xe khắc rõ ràng một chữ “Tào”.
Ngồi trong xe, chính là Hứa Ngọc Trân — thiếp của Tào Sảng, và Hứa Ngọc Phủ — thiếp của Tào Huấn.
“Hôm nay theo tướng quân đến trường ngựa vây săn, nghe nói Hạ Hầu muội muội ngày nào cũng đến đây luyện cưỡi ngựa bắn cung, chắc vất vả lắm, nên bọn ta mang ít nho và táo trắng tiến cống từ Lương Châu đến tặng muội. Người đâu, mang lễ vật lên.”
Người nói là Hứa Ngọc Trân — chị cả trong ba tỷ muội họ Hứa. Nàng so với Hứa Ngọc Phủ hơi đầy đặn hơn, nhưng cả hai có đến sáu phần giống nhau, đều nở nụ cười kiều mỵ y hệt.
Hai gã tùy tùng vạm vỡ từ trên xe khiêng xuống hai giỏ đầy ắp, một giỏ nho, một giỏ táo trắng, trái nào trái nấy đều căng mọng tươi ngon.
Nho và táo trắng xứ Lương Châu nổi danh khắp nơi, nhưng vì đường xa hiểm trở, nên vô cùng hiếm có, thường chỉ được tiến cống cho hoàng cung. Hạ Hầu Nghiên còn nhớ, năm ngoái cũng vào thời điểm này, cung đình ban thưởng, phủ Hạ Hầu chỉ được chia đúng một đĩa nhỏ nho và táo trắng. Còn giờ đây, huynh đệ Tào Sảng lại tùy ý mang đến hai giỏ tặng người, xem ra còn hào phóng hơn cả thiên tử đương triều…
“Không ngờ chỗ muội muội Hạ Hầu lại náo nhiệt thế này, công tử Chung và công tử Tư Mã cũng có mặt, vừa hay cùng nhau nếm thử một chút.”
Người ta thường nói, giơ tay không đánh người cười. Đã là khách chủ động đến thăm, lại còn mang lễ vật quý giá, Hạ Hầu Nghiên đành phải nén sự phản cảm trong lòng, bước lên trước, tỏ lời cảm tạ.
“Đa tạ nhị vị tặng lễ hậu như vậy, Hạ Hầu Nghiên cảm kích vô cùng, ngày khác tất sẽ đến phủ bái phỏng...” Nàng đang nói lời khách sáo thì bất ngờ bị Hứa Ngọc Trân đưa tay ra nắm lấy.
“Muội muội Hạ Hầu cần gì phải khách khí như thế? Hai nhà ta vốn đồng tông đồng tộc, các tẩu yêu quý muội cũng là chuyện nên làm. Ta thấy muội ngày ngày luyện tập, đôi tay cũng chai sạn không ít, thật khiến người ta đau lòng.”
Thực ra mỗi khi luyện bắn cung, Hạ Hầu Nghiên đều cẩn thận đeo bao tay da để bảo vệ lòng bàn tay, nhưng so với ngón tay trơn mịn của Hứa Ngọc Trân, tay nàng đúng là khô hơn đôi chút.
Nàng không thích bàn tay của Hứa Ngọc Trân — trơn trượt, nhầy nhụa, khiến người ta liên tưởng đến cơ thể nhớp nháp đang bò của loài sên, chỉ nghĩ thôi đã thấy buồn nôn.
Nàng khẽ dùng sức, định rút tay lại.
Đúng lúc đó, một cái đầu to lớn đen kịt đột ngột lao vào giữa hai người, mở to cái miệng đầy máu, trong đó toàn là răng nanh sắc nhọn, mùi hôi tanh nồng nặc ập thẳng vào mặt...
Đó là một con chó ngao đen to lớn, trong đôi mắt đỏ như máu ánh lên sát ý thèm khát.
Hạ Hầu Nghiên còn chưa kịp phản ứng, suýt nữa bị con ác thú đó nhào tới vồ ngã. Trong khoảnh khắc như chớp giật, Tư Mã Chiêu đã kịp vòng tay ôm lấy eo nàng, kéo nàng lùi hẳn về sau một trượng rồi mới đứng lại.
Bị dọa đến thẫn thờ, Hạ Hầu Nghiên vừa được Tư Mã Chiêu ôm vào lòng mới dần lấy lại tinh thần. Hứa Ngọc Phủ kéo mạnh sợi xích vàng sáng lấp lánh trong tay, ghì chặt con ác khuyển trở lại.
“Ôi trời, ta đáng chết thật, lại không giữ chặt dây xích trong tay, suýt chút nữa để con súc sinh này làm hại muội muội rồi. Muội muội chớ khóc nhé.”
Tuy là xin lỗi, nhưng trong giọng nói của Hứa Ngọc Phủ lại không giấu nổi vẻ đắc ý.
Hứa Ngọc Trân vội vàng bước xuống xe ngựa, định kéo tay Hạ Hầu Nghiên kiểm tra xem nàng có sao không, nhưng Hạ Hầu Nghiên lại níu lấy vạt áo Tư Mã Chiêu, trốn ra sau lưng hắn.
Thấy Hứa Ngọc Trân lộ vẻ khó xử, Tư Mã Chiêu lên tiếng:
“A Nghiên hẳn là bị dọa sợ, thân thể không hề gì, mời nhị vị phu nhân hồi phủ cho.”
“Theo lý mà nói, con súc sinh này dọa muội muội như thế, hẳn phải lập tức xử tử, chỉ là đây là con chó ngao được đại tướng quân yêu quý nhất, do sứ thần Tây Vực tiến cống, bọn ta nào dám tùy tiện xử trí…” Hứa Ngọc Trân vẫn tiếp tục buông lời khách sáo. Tư Mã Chiêu không đáp lại, chỉ hờ hững liếc nàng một cái — không biết vì sao, ánh mắt đó khiến lưng nàng lạnh toát.
Nàng đã vào phủ tướng quân nhiều năm, tự thấy mình từng trải, không còn là ca cơ nghèo hèn không chỗ dựa như xưa. Thế nhưng ánh mắt của vị nam tử mới chỉ ngoài đôi mươi trước mặt lại khiến nàng cảm nhận được áp lực mà ngay cả Tào Sảng cũng chưa từng mang lại.
Hứa Ngọc Trân kéo chặt tấm áo choàng sang trọng, nói thêm vài câu khách khí, rồi cùng Hứa Ngọc Phủ lên xe rời đi.
Bên này, Chung Hội đã sớm chạy đến bên cạnh Hạ Hầu Nghiên, lo lắng hỏi:
“Tỷ tỷ, có bị thương chỗ nào không? Có đau ở đâu không?”
Hạ Hầu Nghiên thấy hắn tới, cố gắng kìm nước mắt, không nói gì, chỉ lắc đầu.
Chung Hội còn định hỏi tiếp, nàng vẫn chỉ lặng lẽ lắc đầu, núp sau lưng Tư Mã Chiêu, tay vẫn nắm chặt vạt áo sau lưng hắn.
“Tỷ tỷ…”
Tư Mã Chiêu nhìn hắn một cái như nhắc nhở, ra hiệu đừng hỏi thêm, rồi dặn Tích Duyệt đưa mọi người rời đi, chỉ để lại hai người bọn họ.
Chung Hội có chút không cam lòng, nhưng cuối cùng vẫn bị Tích Duyệt kéo đi.
Tư Mã Chiêu quay lại, đối diện với Hạ Hầu Nghiên.
“Giờ không còn ai khác, A Nghiên không cần phải nhịn nữa.”
Giọng Tư Mã Chiêu mang theo sự dịu dàng và xót xa, Hạ Hầu Nghiên ngẩng đầu nhìn hắn, trong con ngươi trong trẻo của hắn chỉ phản chiếu mỗi bóng hình mình, đôi môi dưới vốn cắn chặt cũng dần buông lỏng, cuối cùng không nhịn nổi nữa, nàng lao vào lòng hắn.
“Ca ca Tử Thượng, muội sợ quá…”
“Con ác khuyển đó, thật dữ, thật thối…”
“Hôm trước, Dung tỷ tỷ nhắc muội rằng, mũi tên hôm ấy có thể sẽ khiến Hứa Ngọc Phủ trả thù. Muội không ngờ, hôm nay ả thật sự đến trả thù muội… nhưng muội đâu có làm sai gì đâu…”
Nói đến đây, nước mắt nàng lã chã tuôn rơi, vừa khóc vừa nức nở. Tư Mã Chiêu chỉ lặng lẽ đưa tay, nhẹ nhàng xoa vai nàng theo nhịp, lòng đầy thương xót.
...