Mất Tích Và Án Mạng Liên Hoàn

Chương 4: Anh gây chuyện thì đừng khai tôi ra là được


Chương trước Chương tiếp

Sau khi đưa cơm cho Lê Tố xong, Tống Quy Nghi mới vội vàng quay về ăn trưa. Ăn xong, anh gọi một cuộc điện thoại cho Vương Phàm:
“Cảnh sát Vương, là tôi đây. Anh đang bận không?”

Vương Phàm dường như đang ăn, tiếng hút mì vang rõ qua điện thoại:
“Ồ, không bận, nhưng cậu moi số tôi từ thùng rác nào ra thế? Lâu như vậy cuối cùng cũng nhớ đến tôi à? Có việc gì tìm tôi đây?”

“Ừ, các anh có xử lý vụ mất tích không?”

Giọng của Vương Phàm có vẻ nghiêm túc hơn:
“Sao vậy? Ai đó quanh cậu mất tích à? Không phải cô bạn gái nhỏ của cậu đấy chứ?”

Tống Quy Nghi vội nói:
“Không phải, là một người đến tên còn không biết.”

Vương Phàm nói:
“Vậy thì hơi rắc rối. Mất tích mà muốn lập án thì ít nhất phải có người liên quan trực tiếp, như bố mẹ, vợ con, bạn bè, hoặc cùng lắm là đồng nghiệp.”

Tống Quy Nghi cố ý hỏi:
“Vậy nghĩa là vụ này các anh không xử lý được rồi.”

Vương Phàm ngập ngừng:
“Có thể nói vậy.”

Đợi đúng câu trả lời này, Tống Quy Nghi mỉm cười:
“Thế thì anh nên cảm ơn tôi. Tôi đang điều tra vụ này, coi như giúp các anh bớt việc. Nhưng có vài thứ chắc vẫn cần các anh hỗ trợ.”

Vương Phàm vừa cười vừa mắng:
“Cút đi, nhóc con. Cậu vòng vo cả buổi để chờ tôi nói câu này hả? Cần tôi giúp gì nào?”

Tống Quy Nghi nói:
“Tôi muốn xem camera giám sát.”

Trung tâm thương mại chỉ có một cửa lớn, có camera đối diện cửa chính, và một lối ra dẫn xuống bãi đỗ xe ngầm cũng được giám sát. Ngoài ra, mỗi tầng có hai camera nhắm vào thang cuốn, nhưng vẫn có điểm mù. Tuy nhiên, bất kỳ ai ra vào trung tâm đều phải xuất hiện trên camera. Camera giám sát chỉ có cảnh sát mới được quyền trích xuất, nhưng một vụ mất tích mà đến tên nạn nhân cũng không rõ thì không thể lập án. Đây chính là vùng xám giữa pháp luật và cá nhân, và Tống Quy Nghi chỉ có thể nhờ Vương Phàm làm trái quy tắc một chút.

Rốt cuộc, Hoàng tiểu thư có thật sự gặp ảo giác, hay đã may mắn gặp một vụ án kỳ bí, sẽ sớm được sáng tỏ.

Vương Phàm chỉ có thể đến sau giờ làm, hẹn gặp lúc 7 giờ tối. Trong lúc đó, Tống Quy Nghi có thời gian đi quanh trung tâm thêm một vòng.

Quán bar ở tầng ba mà Hoàng Tuyên Nghi nhắc đến đã chuẩn bị mở cửa. Tống Quy Nghi nhìn kỹ tấm biển hiệu, từ hàng đèn sáng nhấp nháy anh nhận ra tên quán là "Khỉ Đỏ" (Red Monkey). Cách trang trí ở cửa có phần sặc sỡ, những bóng đèn màu lấp lánh như một bảng màu bị đổ ra, khiến mắt người nhìn loạn cả lên.

Tống Quy Nghi đẩy cửa bước vào, thấy một nhân viên pha chế đang lau cốc ở quầy bar.

Nhân viên pha chế trẻ tuổi, trạc tuổi anh, khoảng hơn 20. Tóc anh ta được vuốt gel dựng lên, làm tăng thêm 5cm chiều cao. Tai trái đeo một chiếc khuyên tai.

Tống Quy Nghi quan sát bố cục bên trong quán bar, nơi đây được chia thành ba khu bằng các vách ngăn. Một số quán bar thường thiết kế như vậy để tránh khách hàng nhìn thấy nhau khi say xỉn.

Theo lời kể của Hoàng Tuyên Nghi, cô ngồi ở khu giữa. Cô nhớ rằng trong quán lúc đó có hai khách khác, một người ngồi ở góc phía sau, người kia gần cửa. Nếu cô không nhớ nhầm, sẽ nảy sinh một vấn đề: một trong hai vị khách đó không thể nhìn thấy chỗ cô ngồi, vậy làm sao người đó khẳng định cô đến một mình? Trừ khi người đó đến sau cô, phải đi ngang qua chỗ cô ngồi.

Không tìm được thêm manh mối nào khác, Tống Quy Nghi quyết định trò chuyện với nhân viên pha chế.

Nhân viên pha chế toát lên vẻ từng trải của người đã sống lâu trong xã hội. Tống Quy Nghi có cảm giác anh ta là một người khó dò hỏi, giống như con lươn trơn tuột, có lẽ cũng vì anh vẫn còn chút khí chất thư sinh chưa rũ bỏ được.

Dù vậy, anh vẫn giả vờ như vô tình mở lời:
“Ở đây lúc nào cũng là anh làm việc ở quầy bar à?”

Nhân viên pha chế ngẩng đầu, lơ đễnh đáp:
“Sao vậy? Hỏi thế để làm gì?”

Tống Quy Nghi cười:
“Tôi có một người bạn làm rơi khuyên tai ở đây tuần trước, muốn hỏi xem anh có thấy không. Nếu anh vẫn làm ở đây, chắc anh sẽ nhớ.”

“Là cuối tuần à?”

“Hình như vậy.”
Nghệ thuật nói dối là giữ lời mơ hồ, để nếu bị chất vấn vẫn có đường lui. Tống Quy Nghi cố ý ngập ngừng, làm ra vẻ suy nghĩ:
“Tôi nhớ hình như cô ấy nói là thứ Sáu tuần trước.”

Nhân viên pha chế không chút do dự:
“Vậy chắc không phải rồi. Thứ Sáu chỉ có hai khách, không có cô gái nào cả.”

Tống Quy Nghi tiếp tục hỏi:
“Anh nhớ kỹ thật đấy. Vậy có thể là thứ Năm. Thứ Năm có đông không?”

Nhân viên pha chế đột nhiên dừng tay, đánh giá anh một lúc, rồi chậm rãi nói:
“Bạn cậu có phải là cô gái đã đến hỏi trước đó không? Trông như sinh viên, cao tầm này.” Anh ta dùng tay ước lượng chiều cao. Tống Quy Nghi biết anh ta đang nói đến Hoàng Tuyên Nghi.
“Cô ấy đến hôm thứ Sáu, hỏi mấy câu khá kỳ lạ, nhưng không nói gì về khuyên tai.”

Tống Quy Nghi vờ như không biết:
“Câu hỏi kỳ lạ gì?”

Nhân viên pha chế đáp:
“Cô ấy hỏi tôi liệu cô ấy có đến một mình không. Lạ thật, chẳng lẽ cô ấy không tự biết? Tôi nhớ rất rõ hôm đó quán không đông. Cô ấy đúng là đến một mình, còn gọi một ly Moscow Mule.”

Tống Quy Nghi gật đầu:
“Ra vậy. À, tôi hỏi một chút được không? Anh từng ngồi tù chưa?”

Nhân viên pha chế giật mình, suýt đánh rơi ly cốc. Anh ta hỏi lại, giọng nghi ngờ:
“Cậu là cảnh sát à?”

Tống Quy Nghi cười nhướng mày:
“Cảnh sát? Không, tôi chỉ là một công dân tốt bụng. Nhưng tôi có người thân làm cảnh sát, chắc bị ảnh hưởng chút thôi.”

Nhân viên pha chế quan sát anh, im lặng một lúc rồi cười nhạt:
“Vậy à? Sao cậu đoán được?”

Tống Quy Nghi nghĩ mình sẽ bị đánh, không ngờ đối phương không nổi giận. Anh thở phào, đáp:
“Ngồi tù lâu ngày, hành động thường có chút gò bó. Tôi quan sát anh nãy giờ, tư thế của anh cứ như bị khung nào đó giữ chặt, không thoải mái. Khi nhìn người, anh luôn nhìn vào ngực họ trước, chắc là thói quen từ tù, để nhìn tên thêu trên áo. Anh mới ra được ít lâu đúng không?”

Nhân viên pha chế nói:
“Được hai tháng rồi. Trước đó bị bắt vì trộm cắp.”

Tống Quy Nghi hỏi:
“Trong tù ăn uống thế nào?”

Nhân viên pha chế bất ngờ trước câu hỏi, ngập ngừng:
“Cũng tạm, một món mặn, một món rau, có gà, có thịt.”

Tống Quy Nghi nói:
“Vậy còn tốt hơn đồ ăn ở bệnh viện tâm thần tôi từng ở.”

Nhân viên pha chế bật cười nhẹ, nói:
“Dù ở đâu cũng thế thôi. Ra ngoài rồi thì đừng vào lại nữa. Cậu có muốn uống một ly không?”

Tống Quy Nghi lắc đầu. Anh vừa nhận được cuộc gọi từ Vương Phàm, báo rằng anh ta và Hoàng Tuyên Nghi đã đến.

Camera giám sát của trung tâm được điều khiển tại phòng giám sát. Tống Quy Nghi giới thiệu Vương Phàm và Hoàng Tuyên Nghi ở cửa, sau đó Vương Phàm dẫn đầu bước vào.

Theo quy định, phòng giám sát luôn có nhân viên túc trực 24/7. Khi họ bước vào, một nhân viên bảo vệ đang ngáp và dụi mắt. Không đợi anh ta mở lời, Vương Phàm giơ thẻ cảnh sát, nghiêm túc nói:
“Cô gái này nói một người bạn của cô ấy mất tích. Tôi cần xem lại camera giám sát. Thời gian là từ 7 giờ đến 8 giờ tối thứ Năm tuần trước, gồm cả camera ở cửa chính và bãi đỗ xe.”

Nhân viên bảo vệ hơi ngớ người, bối rối nói:
“Anh là cảnh sát à? Vậy tôi có cần báo cáo lên cấp trên không? Tôi chỉ là nhân viên bên ngoài được thuê thôi, mấy chuyện này không liên quan đến tôi mà.”

Vương Phàm vốn quen với phản ứng này, bình tĩnh đáp:
“Hiện tại vẫn đang trong giai đoạn điều tra. Anh giữ kín chuyện là được. Tôi biết nếu có sự cố, bên các anh cũng khó ăn nói, có khi còn bị trừ tiền. Vậy nên chúng ta giữ mọi chuyện đơn giản thôi, giải quyết xong ở đây là tốt nhất. Anh cho tôi xem camera trước đã.”

Nhân viên bảo vệ vội vàng mở đoạn camera giám sát. Camera của trung tâm thương mại chỉ lưu trữ trong một tuần, lần này họ đến vừa kịp.

Đầu tiên là đoạn camera ở cửa chính. Ba người ghé sát vào màn hình, chăm chú nhìn. Bỗng Hoàng Tuyên Nghi chỉ vào một người đàn ông mặc áo khoác dài, hét lên:
“Chính là anh ta! Tôi nói mà, tôi đã nhìn thấy anh ta!”

Người đàn ông mặc áo khoác dài, đội mũ, dáng người trung bình, bước đi rất nhanh. Camera không ghi lại được khuôn mặt, dường như anh ta cố ý che giấu. Mỗi khi đi ngang qua camera, bước chân của anh ta đều nhanh hơn, và chiếc mũ hoàn toàn che khuất mặt.

Vương Phàm, với kinh nghiệm của mình, lập tức nhận ra điều bất thường:
“Người này trông chẳng khác gì tội phạm. Cách anh ta tránh camera rất đáng ngờ.”

Hoàng Tuyên Nghi bối rối, không biết đáp sao.

Sau đó, họ chuyển sang đoạn camera ở khu vực thang cuốn. Có thể thấy rõ người đàn ông lên tầng ba, nhưng rồi rời khỏi phạm vi camera. Hướng đi của anh ta không phải về phía quán bar. Đoạn này được ghi lại vào lúc 7 giờ 35 phút tối.

Tống Quy Nghi nhận xét:
“Đây không phải đường đến quán bar.”

Hoàng Tuyên Nghi lập tức nói thêm:
“Có thể anh ta đi vệ sinh chăng?”

Tống Quy Nghi lắc đầu:
“Nhà vệ sinh và quán bar ở cùng một phía. Không cần đi sang hướng khác. Hiện tại chỉ biết là có người này xuất hiện, nhưng chưa rõ liệu anh ta có thật sự vào quán bar hay không. Có thể cô đã nhớ nhầm, nhận nhầm một người lướt qua là người mình từng gặp.”

Hoàng Tuyên Nghi không vui, giọng cao hẳn lên:
“Anh đừng nói bậy! Nếu nói bị bệnh, anh còn bệnh nặng hơn tôi!”

Vương Phàm vội tách hai người ra, bất lực nói:
“Tôi như giáo viên dẫn học sinh tiểu học đi dã ngoại vậy. Đừng ồn ào nữa.”
Anh quay sang nhân viên bảo vệ:
“Anh mở đoạn camera sau 8 giờ 30 cho tôi xem. Tôi muốn biết người này rời đi lúc nào.”

Họ nhanh chóng lướt qua đoạn từ 8 giờ 30 đến 9 giờ, nhưng không thấy người đàn ông đó xuất hiện. Kéo dài đến 9 giờ 30, vẫn không có kết quả. Camera ở bãi đỗ xe cũng không ghi lại được hình ảnh của anh ta.

Hoàng Tuyên Nghi không cam tâm:
“Có khi nào đoạn sau nữa không? Chúng ta xem nhanh quá nên bỏ sót rồi.”

Vương Phàm liếc mắt ra hiệu, kéo Tống Quy Nghi ra ngoài, hạ giọng nói:
“Coi bộ xem hết mấy đoạn camera này sẽ rất tốn thời gian, bây giờ chưa làm xong được. Chuyện này không có lập án, tôi không thể mang camera đi. Giúp cậu đến đây thôi. Một lát cậu nói chuyện riêng với nhân viên bảo vệ, bảo họ gửi đoạn camera cho cậu. Cứ nói khéo một chút.”

Tống Quy Nghi gật đầu:
“Tôi hiểu rồi. Lần này cảm ơn anh nhiều.”

Vương Phàm vỗ mạnh vào vai anh, cười lớn:
“Cảm ơn gì chứ. Sau này nếu cậu gây chuyện, đừng khai tôi ra là được!”



Bình luận
Sắp xếp
    Loading...